Ống tiêu hóa là gì? Các công bố khoa học về Ống tiêu hóa

Ống tiêu hóa là một hệ thống cơ quan trong cơ thể động vật, bao gồm hệ thống tiêu hóa và hệ thống hô hấp, có chức năng xử lý thức ăn và chuyển hóa chúng thành d...

Ống tiêu hóa là một hệ thống cơ quan trong cơ thể động vật, bao gồm hệ thống tiêu hóa và hệ thống hô hấp, có chức năng xử lý thức ăn và chuyển hóa chúng thành dạ dày.
Ống tiêu hóa là một hệ thống cơ quan phức tạp trong cơ thể động vật có chức năng tiếp nhận thức ăn, phân tách và tiêu hóa chúng để cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể. Hệ thống tiêu hóa bao gồm các bộ phận sau:

1. Miệng: Là cửa vào của ống tiêu hóa. Nơi thức ăn được đưa vào và bắt đầu quá trình tiêu hóa. Có vai trò cắt nhỏ, nghiền và trộn thức ăn.

2. Quả cầu: Nơi thức ăn được nhai và trộn với nước bọt, tạo thành bột thức ăn mềm. Quả cầu áp suất không khí khi thức ăn đi qua để đẩy thức ăn sang cổ họng.

3. Cổ họng: Kết nối giữa miệng và dạ dày. Cổ họng đẩy thức ăn từ miệng vào dạ dày thông qua quá trình co bóp cơ.

4. Dạ dày: Là một bức thể ống hình nón nằm ở giữa ống tiêu hóa. Dạ dày tiếp nhận thức ăn từ cổ họng và tiếp tục quá trình trộn thức ăn với nước tiểu và các enzyme tiêu hóa. Thức ăn được giữ lại trong dạ dày một thời gian, giúp quá trình tiêu hóa tiếp tục trước khi được đẩy vào ruột non.

5. Ruột non: Là phần dẫn chất thức ăn từ dạ dày sang ruột già. Trong ruột non, thức ăn được tiếp tục phân giải bởi enzym tiêu hóa và hấp thụ dưỡng chất thông qua thành ruột vào máu để cung cấp năng lượng cho cơ thể.

6. Ruột già: Là phần cuối cùng của ống tiêu hóa. Ruột già hấp thụ nước và chất chất thải không cần thiết từ chất dẫn chất. Chất thải sau cùng được hình thành thành phân và được đẩy qua tử cung và hậu quảng trường trước khi được loại bỏ qua hậu quảng trường.

Hệ thống tiêu hóa cùng với hệ thống hô hấp và hệ thống tuần hoàn là những hệ thống cơ quan quan trọng trong cơ thể động vật, đảm bảo sự sống còn và cung cấp năng lượng cho cơ thể.
Hệ thống tiêu hóa trong cơ thể động vật gồm các bộ phận và cơ quan có chức năng riêng để thực hiện quá trình tiêu hóa và hấp thụ dinh dưỡng từ thức ăn. Dưới đây là chi tiết về từng bộ phận trong hệ thống tiêu hóa:

1. Miệng: Là vị trí đầu tiên của hệ thống tiêu hóa. Thức ăn được đưa vào miệng và kẹp giữa các hàm răng để bắt đầu quá trình tiêu hóa cơ học. Trong miệng, có sự tiếp xúc thức ăn với nước bọt và enzyme tiêu hóa (như amylase nhỏ).

2. Răng: Các răng có vai trò nhai và cắt nhỏ thức ăn. Răng được chia thành các loại khác nhau tùy thuộc vào loại thức ăn và ký sinh trùng. Ví dụ như răng cưa để xé thịt hoặc răng cối để nhai cỏ.

3. Hàm dưới và hàm trên: Hàm dưới và hàm trên là nơi chứa răng và cho phép các cử động nhai và cắn thức ăn.

4. Lưỡi: Lưỡi giúp di chuyển thức ăn trong miệng và đẩy nó xuống ruột non thông qua cổ họng.

5. Cổ họng (pharynx): Cổ họng giúp định hướng thức ăn vào dạ dày thay vì vào khí quản. Nó đảm bảo rằng thức ăn chỉ đi xuống hệ tiêu hóa chứ không vào hệ hô hấp.

6. Dạ dày (stomach): Dạ dày là cơ quan có kết cấu hình nón nằm giữa cổ họng và ruột non. Nhiệm vụ chính của dạ dày là tiếp nhận thức ăn từ cổ họng và hỗ trợ quá trình tiêu hóa bằng cách nghiền, trộn và tráng bằng nước tiểu và enzym tiêu hóa, chủ yếu là pepsin.

7. Ruột non (small intestine): Ruột non là một phần quan trọng trong tiêu hóa và hấp thụ dinh dưỡng. Nó chia thành ba phần chính: ruột non trên (duodenum), ruột non giữa (jejunum) và ruột non dưới (ileum). Trong ruột non, thức ăn được tiếp tục phân giải và tiếp xúc với enzym tiêu hóa từ tụy và niệu quản để giúp phân giải các chất béo và protein thành các thành phần nhỏ hơn có thể hấp thụ.

8. Tử cung (colon): Tử cung là phần cuối cùng của hệ tiêu hóa. Nó hấp thụ nước và chất chất thải không cần thiết từ chất dẫn chất, tạo ra chất thải dạng kết tủa gọi là phân. Phân sau cùng được đẩy qua hậu quảng trường (rectum) và sau đó được loại bỏ qua hậu quảng trường (anus).

Hệ thống tiêu hóa có vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa thức ăn thành dạ dày và cung cấp dinh dưỡng cần thiết cho sự thịnh vượng của cơ thể động vật.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ống tiêu hóa":

PHƯƠNG PHÁP [14C]DEOXYGLUCOSE ĐỂ ĐO LƯỜNG MỨC TIÊU HÓA GLUCOSE CỤC BỘ Ở NÃO: LÝ THUYẾT, QUY TRÌNH, VÀ CÁC GIÁ TRỊ BÌNH THƯỜNG Ở CHUỘT ALBINO TỈNH TÁO VÀ GÂY MÊ1 Dịch bởi AI
Journal of Neurochemistry - Tập 28 Số 5 - Trang 897-916 - 1977

Tóm tắt— Một phương pháp đã được phát triển để đo lường đồng thời tốc độ tiêu thụ glucose trong các thành phần cấu trúc và chức năng khác nhau của não trong tình trạng sống. Phương pháp này có thể được áp dụng cho hầu hết các loài động vật thí nghiệm trong trạng thái có ý thức. Nó dựa trên việc sử dụng 2‐deoxy‐D‐[14C]glucose ([14C]DG) như một chất đồng vị ký hiệu cho quá trình trao đổi glucose giữa huyết tương và não và sự phosphoryl hóa của nó bởi hexokinase trong các mô. [14C]DG được sử dụng vì chất được gắn nhãn trong sản phẩm của nó, [14C]deoxyglucose‐6‐phosphate, hầu như bị giữ lại trong mô trong suốt thời gian đo lường. Một mô hình được thiết kế dựa trên các giả định của trạng thái ổn định cho sự tiêu thụ glucose, quá trình cân bằng bậc nhất của [14C]DG tự do trong mô với mức huyết tương, và tốc độ tương đối của phosphoryl hóa của [14C]DG và glucose xác định bởi nồng độ tương đối của chúng trong các bể tiền chất và các hằng số động học tương ứng của chúng cho phản ứng hexokinase. Một phương trình hoạt động dựa trên mô hình này đã được suy ra dựa trên các biến khả dụng. Một liều [14C]DG được tiêm tĩnh mạch và nồng độ [14C]DG và glucose trong huyết tương động mạch được theo dõi trong khoảng thời gian được chỉ định giữa 30 và 45 phút. Tại thời điểm quy định, đầu được cắt và đông lạnh trong Freon XII lạnh hóa bằng N2, và não được cắt lát để chụp ảnh tự động. Nồng độ mô cục bộ của [14C]DG được xác định bằng phương pháp chụp ảnh tự động định lượng. Sự tiêu thụ glucose của mô não cục bộ được tính toán bằng phương trình dựa trên các giá trị đo lường này.

Phương pháp đã được áp dụng cho chuột albino bình thường trong trạng thái có ý thức và dưới gây mê thiopental. Kết quả cho thấy tốc độ tiêu thụ glucose cục bộ trong não nằm ở hai phân bố khác biệt, một là chất xám và một là chất trắng. Ở chuột tỉnh, các giá trị trong chất xám thay đổi rộng rãi từ cấu trúc này sang cấu trúc khác (54-197 μmol/100 g/phút) với các giá trị cao nhất ở các cấu trúc liên quan đến chức năng thính giác, ví dụ như thể gối trong, cội âm trên, cập âm dưới, và vỏ não thính giác. Các giá trị trong chất trắng đều đặn hơn (tức là 33–40 μmo1/100 g/phút) ở mức khoảng một phần tư đến một nửa những giá trị của chất xám. Tốc độ không đồng nhất của sự tiêu thụ glucose thường thấy trong các cấu trúc cụ thể, thường tiết lộ một mô hình kiến trúc tế bào. Gây mê thiopental làm giảm mạnh tốc độ sử dụng glucose toàn bộ trong não, đặc biệt là ở chất xám, và tốc độ chuyển hóa trong chất xám trở nên đồng đều hơn ở mức thấp hơn.

Khuyến nghị hướng dẫn của Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ/Trường Đại học bệnh học Hoa Kỳ về xét nghiệm mô hóa miễn dịch thụ thể estrogen và progesterone trong ung thư vú Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 28 Số 16 - Trang 2784-2795 - 2010
Mục đích

Phát triển một hướng dẫn nhằm cải thiện độ chính xác của xét nghiệm mô hóa miễn dịch (IHC) các thụ thể estrogen (ER) và thụ thể progesterone (PgR) trong ung thư vú và tiện ích của những thụ thể này như là các dấu hiệu dự đoán.

Phương pháp

Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ và Trường Đại học bệnh học Hoa Kỳ đã triệu tập một Hội đồng Chuyên gia quốc tế, thực hiện một tổng quan và đánh giá hệ thống về tài liệu cùng với sự hợp tác của Cancer Care Ontario và phát triển các khuyến nghị nhằm tối ưu hóa hiệu suất xét nghiệm IHC ER/PgR.

Kết quả

Có thể lên đến 20% các xét nghiệm xác định IHC hiện tại về ER và PgR trên phạm vi toàn cầu không chính xác (âm tính giả hoặc dương tính giả). Hầu hết các vấn đề với xét nghiệm đã xảy ra do sự biến động trong các biến số tiền phân tích, ngưỡng dương tính và tiêu chuẩn diễn giải.

Khuyến nghị

Hội đồng khuyến nghị rằng tình trạng của ER và PgR nên được xác định trên tất cả các trường hợp ung thư vú xâm lấn và các trường hợp tái phát ung thư vú. Một thuật toán xét nghiệm dựa trên hiệu suất xét nghiệm chính xác, có thể tái tạo được đề xuất. Những yếu tố để giảm bớt sự biến động của xét nghiệm được chỉ định cụ thể. Khuyến cáo rằng xét nghiệm ER và PgR được coi là dương tính nếu có ít nhất 1% nhân khối u dương tính trong mẫu xem xét trong sự hiện diện của phản ứng dự kiến của các yếu tố kiểm soát nội bộ (các yếu tố biểu mô bình thường) và kiểm soát bên ngoài. Sự không có lợi từ liệu pháp nội tiết cho phụ nữ với ung thư vú xâm lấn ER âm tính đã được xác nhận qua các tổng số lớn các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.

#hướng dẫn #đánh giá #thụ thể estrogen #thụ thể progesterone #tính dự đoán #ung thư vú #xét nghiệm mô hóa miễn dịch #hiệu suất xét nghiệm #biến số tiền phân tích #tiêu chuẩn diễn giải #thuật toán xét nghiệm #liệu pháp nội tiết #ung thư vú xâm lấn #kiểm soát nội bộ #kiểm soát ngoại vi.
Polyphenol thực vật như chất chống oxy hoá trong dinh dưỡng và bệnh tật ở con người Dịch bởi AI
Oxidative Medicine and Cellular Longevity - Tập 2 Số 5 - Trang 270-278 - 2009

Polyphenol là các chất chuyển hóa thứ cấp của thực vật và thường tham gia vào việc bảo vệ chống lại tia cực tím hoặc sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh. Trong thập kỷ qua, đã có nhiều quan tâm về tiềm năng lợi ích sức khỏe từ polyphenol thực vật trong chế độ ăn uống như một chất chống oxy hoá. Các nghiên cứu dịch tễ học và phân tích tổng hợp liên quan mạnh mẽ đến việc tiêu thụ lâu dài các chế độ ăn uống giàu polyphenol thực vật có thể cung cấp sự bảo vệ chống lại sự phát triển của ung thư, bệnh tim mạch, tiểu đường, loãng xương và các bệnh thoái hóa thần kinh. Tại đây, chúng tôi trình bày kiến thức về các tác động sinh học của polyphenol thực vật trong bối cảnh liên quan đến sức khỏe con người.

#polyphenol thực vật #chất chống oxy hóa #sức khỏe con người #ung thư #bệnh tim mạch #tiểu đường #loãng xương #bệnh thoái hóa thần kinh #chất chuyển hóa thứ cấp #bảo vệ tế bào.
Astaxanthin: Nguồn gốc, Quy trình Chiết xuất, Độ bền, Hoạt tính Sinh học và Ứng dụng Thương mại - Một Tổng quan Dịch bởi AI
Marine Drugs - Tập 12 Số 1 - Trang 128-152
Hiện nay, các hợp chất có hoạt tính sinh học được chiết xuất từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang thu hút đáng kể sự quan tâm, đặc biệt là những hợp chất có thể tác động hiệu quả lên các mục tiêu phân tử, có liên quan đến nhiều bệnh tật khác nhau. Astaxanthin (3,3′-dihydroxyl-β,β′-carotene-4,4′-dione) là một xanthophyll carotenoid, có trong Haematococcus pluvialis, Chlorella zofingiensis, Chlorococcum và Phaffia rhodozyma. Nó tích lũy đến 3,8% tính trên trọng lượng khô trong H. pluvialis. Dữ liệu được công bố gần đây của chúng tôi về chiết xuất astaxanthin, phân tích, nghiên cứu độ bền và kết quả về hoạt tính sinh học đã được thêm vào bài báo tổng quan này. Dựa trên kết quả của chúng tôi và tài liệu hiện tại, astaxanthin cho thấy hoạt tính sinh học tiềm năng trong các mô hình in vitro và in vivo. Những nghiên cứu này nhấn mạnh tác động của astaxanthin và lợi ích của nó đối với sự chuyển hóa ở động vật và con người. Sinh khả dụng của astaxanthin ở động vật được cải thiện sau khi cho ăn sinh khối Haematococcus như một nguồn cung cấp astaxanthin. Astaxanthin, được sử dụng như một thực phẩm bổ sung dinh dưỡng, chất chống oxy hóa và chất chống ung thư, ngăn ngừa tiểu đường, các bệnh tim mạch và rối loạn thoái hoá thần kinh, đồng thời kích thích miễn dịch. Các sản phẩm astaxanthin được sử dụng trong các ứng dụng thương mại dưới dạng viên nang, si rô, dầu, gel mềm, kem, sinh khối và bột hạt. Các đơn đăng ký bằng sáng chế astaxanthin có sẵn trong các ứng dụng thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và thực phẩm chức năng. Bản tổng quan hiện tại cung cấp thông tin cập nhật về các nguồn astaxanthin, quy trình chiết xuất, phân tích, độ bền, hoạt tính sinh học, lợi ích sức khỏe và chú ý đặc biệt đến các ứng dụng thương mại của nó.
#astaxanthin #carotenoid #hoạt tính sinh học #chiết xuất #sinh khả dụng #chống oxy hóa #bệnh tiểu đường #bệnh tim mạch #rối loạn thoái hoá thần kinh #ứng dụng thương mại
Tự Điều Chỉnh và Vấn Đề Tự Do của Con Người: Tâm Lý Học Có Cần Sự Lựa Chọn, Tự Quyết, và Ý Chí? Dịch bởi AI
Journal of Personality - Tập 74 Số 6 - Trang 1557-1586 - 2006

TÓM TẮTThuật ngữtự dotheo nghĩa đen ám chỉ sự điều chỉnh bởi chính bản thân. Ngược lại,dịch điều khiển, chỉ sự điều chỉnh bị kiểm soát, hoặc sự điều chỉnh xảy ra mà không có sự thừa nhận của bản thân. Vào thời điểm mà các triết gia và nhà kinh tế ngày càng chi tiết hóa bản chất của sự tự do và nhận thức được tầm quan trọng xã hội và thực tiễn của nó, nhiều nhà tâm lý học đang đặt câu hỏi về thực tế và ý nghĩa của sự tự do và các hiện tượng liên quan mật thiết như ý chí, sự lựa chọn và tự do. Sử dụng khung lý thuyết về tự định hướng (Ryan & Deci, 2000), chúng tôi xem xét các nghiên cứu liên quan đến lợi ích của sự điều chỉnh mang tính tự do so với kiểm soát đối với hiệu suất mục tiêu, sự kiên trì, trải nghiệm cảm xúc, chất lượng mối quan hệ, và sự phát triển tốt đẹp ở các lĩnh vực và nền văn hóa khác nhau. Chúng tôi cũng đề cập đến một số tranh cãi và vấn đề thuật ngữ xung quanh cấu trúc của sự tự do, bao gồm các phê bình của các nhà nghiên cứu sinh học, các nhà nghiên cứu về tương đối văn hóa và các nhà hành vi học. Chúng tôi kết luận rằng có một giá trị phổ quát và phát triển chéo đối với sự điều chỉnh mang tính tự do khi cấu trúc được hiểu một cách nghiêm ngặt.

#tự do #điều chỉnh #tâm lý học #tự định hướng #văn hóa #mục tiêu #ý chí #sự lựa chọn #tương đối văn hóa #nghiên cứu sinh học #hành vi học #sự phát triển tốt đẹp
Xạ trị phối hợp và hóa trị liệu vượt trội hơn so với xạ trị đơn độc trong điều trị ung thư hậu môn giai đoạn tiến xa: kết quả của một thử nghiệm ngẫu nhiên giai đoạn III của Tổ chức Nghiên cứu và Điều trị Ung thư Châu Âu cùng các Nhóm Hợp tác về Xạ trị và Tiêu hóa. Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 15 Số 5 - Trang 2040-2049 - 1997
MỤC ĐÍCH

Nghiên cứu tiềm năng của việc sử dụng đồng thời xạ trị và hóa trị liệu để cải thiện kiểm soát tại chỗ và giảm nhu cầu thực hiện đại tràng nhân tạo, một thử nghiệm ngẫu nhiên giai đoạn III đã được thực hiện trên các bệnh nhân bị ung thư hậu môn tiến xa tại chỗ.

VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Từ năm 1987 đến 1994, 110 bệnh nhân đã được ngẫu nhiên phân chia giữa xạ trị đơn độc và sự kết hợp của xạ trị và hóa trị liệu. Các bệnh nhân có ung thư hậu môn T3-4NO-3 hoặc T1-2N1-3. Xạ trị gồm 45 Gy được cung cấp trong 5 tuần, với liều hàng ngày là 1.8 Gy. Sau thời gian nghỉ 6 tuần, một liều bổ sung 20 hoặc 15 Gy được áp dụng trong trường hợp đáp ứng một phần hoặc đáp ứng hoàn toàn, tương ứng. Phẫu thuật cắt bỏ như một phần điều trị ban đầu sẽ được thực hiện nếu có thể ở những bệnh nhân không đáp ứng sau 6 tuần với 45 Gy hoặc có bệnh còn sót lại có thể sờ thấy sau khi hoàn tất điều trị. Hóa trị liệu sẽ được thực hiện trong suốt thời gian xạ trị: 750 mg/m2 fluorouracil hàng ngày dưới dạng truyền liên tục từ ngày 1 đến 5 và từ ngày 29 đến 33, cùng với một liều đơn mitomycin 15 mg/m2 được tiêm vào ngày 1.

KẾT QUẢ

Việc bổ sung hóa trị liệu vào xạ trị đã tạo ra một sự gia tăng đáng kể tỷ lệ miễn dịch hoàn toàn từ 54% đối với xạ trị đơn độc lên 80% đối với xạ trị và hóa trị liệu, và từ 85% lên 96%, tương ứng, nếu xem xét kết quả sau phẫu thuật. Điều này dẫn đến sự cải thiện đáng kể về kiểm soát tại chỗ và khoảng thời gian không phải thực hiện đại tràng nhân tạo (P = .02 và P = .002, tương ứng), cả hai đều ủng hộ phương pháp điều trị phối hợp. Tỷ lệ kiểm soát tại chỗ cải thiện 18% sau 5 năm, trong khi tỷ lệ không phải thực hiện đại tràng nhân tạo tại thời điểm đó tăng 32% nhờ việc bổ sung hóa trị liệu vào xạ trị. Không tìm thấy sự khác biệt đáng kể khi xem xét các tác dụng phụ nghiêm trọng, mặc dù loét hậu môn thường được quan sát thấy nhiều hơn trong nhóm điều trị phối hợp. Tỷ lệ sống sót vẫn tương tự trong cả hai nhóm điều trị. Loét da, sự tham gia của hạch bạch huyết và giới tính là những yếu tố tiên lượng quan trọng nhất cho cả kiểm soát tại chỗ và tỷ lệ sống sót. Những yếu tố này vẫn có ý nghĩa sau phân tích nhiều biến. Sự cải thiện trong kiểm soát tại chỗ khi thêm hóa trị liệu vào xạ trị cũng vẫn có ý nghĩa sau khi điều chỉnh cho các yếu tố tiên lượng trong phân tích nhiều biến. Tỷ lệ sống còn không có sự kiện, được định nghĩa là không có sự tiến triển tại chỗ, không thực hiện đại tràng nhân tạo, và không có tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc tử vong, cho thấy sự cải thiện đáng kể (P = .03) ủng hộ phương pháp điều trị phối hợp. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 56% cho toàn bộ nhóm bệnh nhân.

KẾT LUẬN

Việc sử dụng đồng thời xạ trị và hóa trị liệu dẫn đến tỷ lệ kiểm soát tại chỗ được cải thiện đáng kể và giảm nhu cầu thực hiện đại tràng nhân tạo ở bệnh nhân bị ung thư hậu môn giai đoạn tiến xa mà không làm tăng đáng kể các tác dụng phụ muộn.

DIPSS Plus: Hệ thống chấm điểm tiên lượng quốc tế động tinh tế cho bệnh xơ hóa tủy nguyên phát kết hợp thông tin tiên lượng từ kiểu nhiễm sắc thể, số lượng tiểu cầu và tình trạng truyền máu Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 29 Số 4 - Trang 392-397 - 2011
Mục đích

Hệ thống Chấm điểm Tiên lượng Quốc tế Động (DIPSS) cho xơ hóa tủy nguyên phát (PMF) sử dụng năm yếu tố nguy cơ để dự đoán sống sót: tuổi trên 65, hemoglobin dưới 10 g/dL, bạch cầu cao hơn 25 × 109/L, tế bào ác tính tuần hoàn ≥ 1%, và các triệu chứng toàn thân. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là cải tiến DIPSS bằng cách kết hợp thông tin tiên lượng từ kiểu nhiễm sắc thể, số lượng tiểu cầu và tình trạng truyền máu.

Bệnh nhân và Phương pháp

Cơ sở dữ liệu Mayo Clinic cho PMF đã được sử dụng để xác định bệnh nhân có thông tin mô học và di truyền học tủy xương sẵn có.

Kết quả

Bảy trăm chín mươi ba bệnh nhân liên tiếp được chọn và chia thành hai nhóm dựa trên việc tham khảo ý kiến có diễn ra trong (n = 428; tập huấn luyện) hoặc sau (n = 365; tập kiểm tra) 1 năm sau chẩn đoán hay không. Phân tích đa biến xác định DIPSS, kiểu nhiễm sắc thể không thuận lợi, tiểu cầu thấp hơn 100 × 109/L, và nhu cầu truyền máu là những yếu tố tiên đoán độc lập về khả năng sống sót kém. Các điểm bất lợi được đặt trọng lượng tỷ số rủi ro (HR) được gán cho các biến này để phát triển một mô hình tiên lượng tổng hợp sử dụng tập huấn luyện. Mô hình sau đó được xác minh trong tập kiểm tra, và khi áp dụng cho tất cả 793 bệnh nhân, cho thấy thời gian sống trung bình là 185, 78, 35, và 16 tháng cho các nhóm nguy cơ thấp, trung bình-1 (HR, 2.2; 95% CI, 1.4 đến 3.6), trung bình-2 (HR, 4.9; 95% CI, 3.2 đến 7.7), và nguy cơ cao (HR, 10.7; 95% CI, 6.8 đến 16.9), tương ứng (P < .001). Sống sót không bị bệnh bạch cầu được dự đoán bởi sự hiện diện của thiếu tiểu cầu hoặc kiểu nhiễm sắc thể không thuận lợi (nguy cơ 10 năm là 31% so với 12%; HR, 3.3; 95% CI, 1.9 đến 5.6).

Kết luận

DIPSS plus kết hợp hiệu quả thông tin tiên lượng từ DIPSS, kiểu nhiễm sắc thể, số lượng tiểu cầu, và tình trạng truyền máu để dự đoán sống sót tổng thể trong PMF. Ngoài ra, kiểu nhiễm sắc thể không thuận lợi hoặc thiếu tiểu cầu dự đoán thời gian sống sót không bị bệnh bạch cầu kém hơn.

#Hệ thống Chấm điểm Tiên lượng Quốc tế Động #xơ hóa tủy nguyên phát #kiểu nhiễm sắc thể #số lượng tiểu cầu #truyền máu #tiên lượng sống sót #mô hình tiên lượng tổng hợp #tỷ số rủi ro #sống sót không bị bệnh bạch cầu.
Các protein mã hóa nhân được hướng đến lạp thể trongToxoplasma gondiiPlasmodium falciparum Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 95 Số 21 - Trang 12352-12357 - 1998

Gần đây, một lạp thể không có khả năng quang hợp đã được nhận diện trong các ký sinh trùng nguyên sinh vật của ngành Apicomplexa. Lạp thể ở apicomplexa, hay gọi là "apicoplast," là không thể thiếu nhưng toàn bộ trình tự của cảPlasmodium falciparumToxoplasma gondiikhông tiết lộ bất kỳ manh mối nào về chức năng chuyển hóa quan trọng mà bào quan này có thể thực hiện trong ký sinh trùng. Để điều tra các chức năng có thể của apicoplast, chúng tôi tìm cách nhận diện các gen được mã hóa trong nhân có sản phẩm được hướng đến apicoplast trongPlasmodiumToxoplasma. Chúng tôi mô tả ở đây các gen nhân mã hóa protein ribosome S9 và L28 và các enzyme tổng hợp axit béo: protein mang acyl (ACP), β-ketoacyl-ACP synthase III (FabH), và β-hydroxyacyl-ACP dehydratase (FabZ). Các gen này cho thấy sự tương đồng cao với các tương đồng trong lạp thể, và việc định vị miễn dịch của S9 và ACP xác nhận rằng các protein tích tụ trong lạp thể. Tất cả các protein có đối tượng là apicoplast đều có trình tự tiền thân ở đầu N phù hợp với hướng đến lạp thể, và trình tự trước của ACP được cho là đủ để hướng một protein xanh phát sáng tái tổ hợp đến apicoplast trong các transgenicT. gondii. Việc định vị của ACP, và rất có thể là FabH và FabZ, trong apicoplast ám chỉ rằng tổng hợp axit béo là một chức năng có thể của apicoplast. Hơn nữa, sự ức chế tăng trưởng củaP. falciparumbởi thiolactomycin, một chất ức chế FabH, chỉ ra vai trò quan trọng của tổng hợp axit béo trong apicoplast. Bởi vì các gen tổng hợp axit béo được nhận diện ở đây thuộc về loại lạp thể/vi khuẩn và khác biệt với con đường tương đương ở động vật, tổng hợp axit béo có tiềm năng là mục tiêu tuyệt vời cho liệu pháp trị liệu hướng đến bệnh sốt rét, toxoplasmosis, và các bệnh do Apicomplexa gây ra.

#Apicoplast #Lạp thể #Axit béo #Ký sinh trùng #Các gen mã hóa nhân #Apicomplexa #Chuyển hóa #Tổng hợp #Mục tiêu trị liệu
Sự Đa Dạng Phân Tử của Lactobacillus spp. và Các Vi Khuẩn Axit Lactic Khác trong Ruột Người như Được Xác Định qua Sự Khuếch Đại Cụ Thể của DNA Ribosome 16S Dịch bởi AI
Applied and Environmental Microbiology - Tập 68 Số 1 - Trang 114-123 - 2002
TÓM TẮT

Một mồi PCR đặc hiệu cho nhóm Lactobacillus , S-G-Lab-0677-a-A-17 đã được phát triển để khuếch đại có chọn lọc DNA ribosome 16S (rDNA) từ các vi khuẩn lactobacilli và nhóm vi khuẩn axit lactic liên quan, bao gồm các chi Leuconostoc , Pediococcus , và Weissella . Các amplicon được tạo ra bởi PCR từ nhiều mẫu đường tiêu hóa (GI), bao gồm cả những mẫu từ phân và manh tràng, chủ yếu cho kết quả là chuỗi giống Lactobacillus , trong đó khoảng 28% tương tự nhất với rDNA 16S của Lactobacillus ruminis . Hơn nữa, bốn chuỗi của loài Leuconostoc đã được tìm thấy mà cho đến nay chỉ được phát hiện trong những môi trường khác ngoài đường tiêu hóa, chẳng hạn như các sản phẩm thực phẩm lên men. Giá trị của mồi này được chứng minh thêm qua việc sử dụng PCR đặc hiệu cho Lactobacillus và phương pháp điện di gel gradient cắt chuỗi (DGGE) của amplicon rDNA 16S có nguồn gốc từ phân và manh tràng từ các nhóm tuổi khác nhau. Đã nghiên cứu được sự ổn định của cộng đồng vi khuẩn đường tiêu hóa trong các nhóm tuổi khác nhau qua các khoảng thời gian khác nhau. Cộng đồng Lactobacillus ở ba người lớn trong suốt một thời kỳ 2 năm cho thấy sự biến đổi về thành phần và sự ổn định tuỳ vào từng cá nhân, trong khi sự thay đổi kế thừa của cộng đồng Lactobacillus đã được quan sát thấy trong suốt 5 tháng đầu đời của trẻ sơ sinh. Hơn nữa, phương pháp PCR đặc hiệu và DGGE đã được thử nghiệm để nghiên cứu sự lưu giữ trong mẫu phân của một dòng Lactobacillus được đưa vào trong quá trình thử nghiệm lâm sàng. Kết luận, sự kết hợp của PCR đặc hiệu và phân tích DGGE của các amplicon rDNA 16S cho phép nhận diện sự đa dạng của các nhóm vi khuẩn quan trọng có mặt với số lượng nhỏ trong các hệ sinh thái cụ thể, chẳng hạn như lactobacilli trong đường tiêu hóa của con người.

#Lactobacillus #PCR đặc hiệu #DGGE #DNA ribosome 16S #vi khuẩn axit lactic #đường tiêu hóa #đa dạng vi khuẩn #phân tích phân tử #cộng đồng vi khuẩn #thử nghiệm lâm sàng
Căng Thẳng Oxid hóa và Bệnh Võng Mạc Đái Tháo Đường Dịch bởi AI
Journal of Diabetes Research - Tập 2007 Số 1 - 2007

Chuyển hóa oxy là rất quan trọng để duy trì sự sống hiếu khí, và sự cân bằng tế bào bình thường hoạt động trên một cân bằng tinh tế giữa việc hình thành và loại bỏ các gốc oxy phản ứng (ROS). Căng thẳng oxy hóa, hậu quả tế bào của sự sản xuất quá mức ROS và sự ức chế việc loại bỏ ROS bởi hệ thống phòng thủ chống oxy hóa, được cho là liên quan đến sự phát triển của nhiều bệnh, bao gồm bệnh Alzheimer và bệnh tiểu đường cùng với các biến chứng của nó. Bệnh võng mạc, một biến chứng vi mạch làm suy yếu do bệnh tiểu đường, là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa có được ở các nước phát triển. Nhiều sự bất thường chuyển hóa do bệnh tiểu đường được cho là liên quan đến sự phát triển của bệnh này, và có vẻ như bị ảnh hưởng bởi căng thẳng oxy hóa gia tăng; tuy nhiên, cơ chế chính xác của sự phát triển này vẫn chưa được làm rõ. Nồng độ superoxide tăng được coi là một liên kết nguyên nhân giữa glucose cao và các bất thường chuyển hóa khác quan trọng trong sinh bệnh học của các biến chứng do tiểu đường. Các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra rằng các chất chống oxy hóa có tác dụng có lợi đối với sự phát triển của bệnh võng mạc, nhưng kết quả từ các thử nghiệm lâm sàng rất hạn chế thì có phần mơ hồ. Mặc dù các chất chống oxy hóa đang được sử dụng cho các bệnh mãn tính khác, nhưng cần có các thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát để điều tra những tác động có lợi tiềm năng của các chất chống oxy hóa trong sự phát triển của bệnh võng mạc ở bệnh nhân tiểu đường.

#Căng thẳng oxy hóa #Bệnh võng mạc #Bệnh tiểu đường #Chất chống oxy hóa #Sự phát triển bệnh
Tổng số: 498   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10